Thứ Hai, 25 tháng 2, 2013

MÀU TÍM HOA SIM

Monday, January 7, 2013

HỮU LOAN * VỀ BÀI THƠ MÀU TÍM HOA SIM

LỜI TỰ THUẬT CỦA HỮU LOAN:
VỀ BÀI THƠ MÀU TÍM HOA SIM
http://youtu.be/BCEGXk744aU

alt

"Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung, tôi cũng học tại Thanh Hoá, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học. Đến năm 1938, lúc đó cũng đã 22 tuổi, tôi ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi không có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khoá ấy, trong đó có Nguyễn Đình Thi, Hồ Trọng Gin, Trịnh văn Xuấn, Đỗ Thiện và ... Tôi - Nguyễn Hữu Loan.
alt

Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hoá để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất, bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khoá đầu tiên. Ở Thanh Hoá, Bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới.

Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà. Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái - lúc đó mới 8 tuổi- mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí : ' Em chào thầy ạ'. Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằng sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. 
Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu ấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một 'bà cụ non'. Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo : em đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn ; những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt ... 

Có lần tôi kể chuyện « bà cụ non » ít nói cho 2 người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận ! Suốt một tuần liền em nằm lì trong buồn trong, không chịu học hành ... Một hôm, bà tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc thơ ... Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý : « mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu » Em không chịu nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà tham Kỳ đưa em lên núi chơi ... 

Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em.Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. bất chợt em hỏi tôi :
- Thầy có thích ăn sim không ?

Tôi nhìn xuống sườn đồi : tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuốn sườn đồi, còn tôi vì mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ ... Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen láy chín mọng.

- Thầy ăn đi.
Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm trồ : « Ngọt quá ».
Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả sim đối với chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những quả sim ngọt đến thế !
Cứ thế, chúng tôi ăn hết quả này đến quả khác.Tôi nhìn em, em cười. hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì ... tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo !

alt

Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng,em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi ... Tôi quay đầu nhìn lại ... em vẫn đứng yên đó ... Tôi lại đi và nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa ... 

Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ ...

Chín năm sau, tôi trở lại nhà, về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em, hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn là cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp ...
Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sơ,ï vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm « soạn kịch bản ».
Một tuần sau đó, chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là :'yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả'. Tôi cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay ... lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long,huyện Nông Công, tỉnh Thanh Hoá của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết !
Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ. Hôm tiễn tôi lên đường, Em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ giờ em không còn cô bé Ninh nữa, mà là người bạn đời yêu quý của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại ... Nếu như 9 năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mát thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống.

Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ : vợ tôi qua đời ! Em chết thật thảm thương : Hôm đó là ngày 25/05 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối ! Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi nỗi đau không gì bù đắp nổi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sau thẳm trong trái tim tôi …

Tôi phải giấu kính nỗi đau trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn ... Dường như càng kèm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, Tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi chép. Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra :
alt
Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng có em chưa biết nói
Khi tóc nàng đang xanh ...
... Tôi về không gặp nàng ...
Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hoá ... Anh bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh. Đó là bài thơ Màu Tím Hoa Sim.
Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 02/04/1916 hiện tại đang « ở nhà trông vườn » ở làng Nguyên Hoàn - nơi tôi gọi là chỗ « quê đẻ của tôi đấy » thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hoá.

Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay, nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi viết mới nổi những câu :
Chiều hành quân, qua những đồi sim
Những đồi sim, những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt
Và chiều hoang tím có chiều hoang biếc
Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.
alt

Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội, từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi' hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi'. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Mặc kệ ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi quá ! với lại tôi cũng chán ngấy bọn họ quá rồi !

Đó là thời năm 1955-1956, khi phong trào văn nghệ sĩ bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống chính sách độc tài, đồng thời chống những kẻ bồi bút cam tâm lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca ngợi cái này cái nọ để kiếm chút cơm thừa canh cặn. Làm thơ phải có cái tâm thật thiêng liêng thì thơ mới hay. Thơ hay thì sống mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì ! Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao tình yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng ... Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn 1 tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở sông ... Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động.. Tôi phản động ở chỗ nào ? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc ?

Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu quý, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan, về nhà để đi cày. Họ không cho bỏ, bắt tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin, tôi muốn bỏ là bỏ, không ai bắt được ! Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có 2 cái càng ở phía sau để đủn hay kéo. Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công an theo dõi, cho người hại tôi ... Nhưng lúc nào cũng có người cứu tôi ! Có một cái lạ là thơ của tôi đã có lần cứu sống tôi ! Lần đó tên công an mật nói thật với tôi là nó được giao lệnh giết tôi, nhưng nó sinh ở Yên Mô, thường đem bài Yên Mô của tôi nói về tỉnh Yên Bình quê nó ra đọc cho đỡ nhớ, vì vậy nó không nỡ giết tôi.
Ngoài Yên Mô, tôi cũng có một vài bài thơ khác được mết chuộng. sau năm 1956, khi tôi về rồi thấy cán bộ khổ quá, tôi đã làm bài Chiếc Chiếu, kể chuyện cán bộ khổ đến độ không có chiếc chiếu để nằm !

Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ năm 1954-1955.
Lúc đó còn là chính trị viên của tiểu đoàn, tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học, lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy chán nản quá, không còn hăng hái nữa. Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia đình địa chủ rất giàu, nắm trong gần 500 mẫu tư điền.
Trước đây, ông địa chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước. Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn, nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chỗ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông. Thế rồi, một hôm, Tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố . Hai vợ chồng ông bị đội Phóng tay phát động quần chúng đem ra cho dân xỉ vả, rồi chôn xuống đất, chỉ để hở hai cái đầu lên. Xong họ cho trâu kéo bừa đi qua đi lại 2 cái đầu đó, cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đội Phóng tay phát động đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách. Tàn nhẫn hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó, cán bộ cấm đoán dân chúng cả việc lấy con cái địa chủ làm vợ làm chồng.
Biết chuyện thảm thương của gia đình ông bà địa chủ tôi hằng nhớ ơn, tôi trở về xã đó xem cô con gái họ sinh sống ra sao vì trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ, nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn.

Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót, nhét vào túi áo, chùi vội một củ rồi đưa lên miệng gặm, ăn khoai sống cho đỡ đói. Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi ; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói.
Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ.
Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó tôi còn ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó, bữa đói bữa no ... Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người con - 6 trai, 4 gái - và cháu nội ngoại hơn 30 đứa !
Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ. Thế mà chúng vẫn trù dập, không chịu để tôi yên. Tới hồi mới mở cửa, tôi được ve vãn, mời gia nhập Hội Nhà Văn, tôi chẳng thèm ra nhập làm gì.

Năm 1988, tôi « tái xuất giang hồ » sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gío. Tôi lang bạt gần 1 năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức để đòi tự do sáng tác, tự do báo chí - xuất bản và đổi mới thực sự.

Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyền bài Màu Tím Hoa Sim của tôi với gía 100 triệu đồng. Họ bảo, đó là một hình thức bảo tồn tài sản Văn hoá. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90 triệu, chia « lộc » cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi gìa, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan.
Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán...".
Nhà Thơ HỮU LOAN

Những đồi Hoa Sim

Dọc Trường Sơn, mùa này những đồi hoa sim tím nở bung nhuộm tím góc rừng. Màu tím bát ngát, man mác gợi nhờ một niềm thương. 
Những đồi hoa sim
ôi những đồi hoa sim tím chiều hoang biền biệt
Vào chuyện ngày xưa nàng yêu hoa sim tím khi còn tóc búi vai
Mấy lúc xông pha ngoài trận tuyến ai hẹn được ngày về
Rồi một chiều mây bay, từ nơi chiến trường đông bắc đó
Lần ghé về thăm xóm hoàng hôn tắt sau đồi...
Tím cả chiều hoang
Một rừng đầy hoa sim
Thoáng buồn ánh sim bên đồi hoang
Màu sim bên đồi xưa
Vào chuyện ngày xưa...
Hoàng hôn màu sim
Một đồi hoa sim
Tím ngắt cả rừng hoang
Nhìn đồi sim tím nhớ người em xưa
Đồi sim vẫn còn trong lối cũ?
Những đồi hoa sim chạy xa tít..
Đồi sim vẫn còn trong lối cũ-Giờ thiếu người xưa ấy-Đồi hoang mới tiêu điều
Ảnh: Minh Phong gửi Cu Làng Cát
Màu tím hoa sim
HỮU LOAN
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Tôi người Vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê...
Nhưng không chết
người trai khói lửa
Mà chết
người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
không được nghe nhau nói
không được trông nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
một mình đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa...
Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường đông bắc
Được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
cỏ vàng chân mộ chí
Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau
Chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tím tím thêm màu da diết
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu... Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm
Tím tình ơi lệ ứa Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành
Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu

Áo anh nát chỉ dù lâu...
Nguồn nhạc: Youtube


No comments:

24 nhận xét:

  1. Xin chia sẻ với Ngọc Trâm trước rung động về những đóa hoa sim tím trong "Mầu tim hoa sim" của thi sĩ Hữu Loan ! Chinh chiến có thể sẽ qua đi nhưng bài thơ của ông cùng những đồi sim tím sẽ bất diệt ! Cảm ơn Ng. Trâm.
    Ngày còn bé , xa bố mẹ tản cư lên vùng trung du Thái Nguyên, lúc chạy Tây đi càn bằng canô từ Cầu Đúông theo sông Cầu lên Phổ Yên, Hiệp Hòa, Phú Bình, có lần tôi đã lạc vào đồi sim, đói, hái sim ăn mệt nghỉ . Lại nhớ phiên chợ quê hay phố huyện, bao giờ cũng có mấy cô mấy bà ngồi góc chợ bán sim chín. Bé không để ý đến hoa sim, chỉ sau này biết yêu, đọc thơ Hữu Loan mới chết mê chết mệt vì cái mầu tím hoa sim "tím chiều hoang biền biệt ...". Hậu sinh phải biết ơn nhà thơ Hữu Loan vì ông đã biến hoa sim -loài hoa hoang dại trở thành " bà chúa của những loài hoa chỉ dành riêng cho tình yêu dang dở ...

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Cảm ơn nhà thơ số một của blog ta đã đọc và bình sớm. Cũng phải thôi, vì không chỉ những nhà thơ Việt Nam, mà cả những ai yêu thơ của ta đêu biết và yêu thích bài thơ này. Màu tím hoa sim của Hữu Loan đã được bao người biết đên, yêu thích, nhớ nhung năm, sáu chục năm qua. Tôi rất đồng cảm và khâm phục câu nhận xét cuối của bạn: ..." Hậu sinh phải biết ơn nhà thơ Hữu Loan vì ông đã biến hoa sim -loài hoa hoang dại trở thành bà chúa của những loài hoa chỉ dành riêng cho tình yêu dang dở ... Một nhận xét thật hay và sâu sắc.

      Xóa
  2. Thế hệ chúng ta đã đi theo kháng chiến, đã lên Việt Bắc, đã lạc vào những đồi tím hoa sim đã say mê đọc đến thuộc lòng Màu tím hoa sim, Bên kia sông Đuống … Và cũng đã nghe những câu chuyện về cải cách ruộng đất và về “ Nhân văn giai phẩm”, nhưng thật hiếm hoi, sau gần 60 năm mới được nghe một người thật nói ra những việc thật, những tình tiết trần trụi về những việc này. Ngay từ năm 1956 Bác Hồ đã thay mặt Đảng và Nhà nước công khai thừa nhận sai lầm trong CCRĐ, tôi nhớ khi đó Bác đã khóc. Lại phải qua nửa thế kỷ Nhà nước mới khôi phục danh dự và tặng nhiều danh hiệu cao quý cho nhiều người trong nhóm nhân văn giai phẩm và nhiều người đã phản biện trong thời kỳ đó. Tiếc thay hơn 50 năm qua, phản biện xã hội là điều xa lạ và gần như cấm kỵ ở nước ta. Và cũng tiếc thay, như người ta đã nói không có phản biện xã hội thì coi như xã hội ấy đã chết lâm sàng. Nhìn ra thế giới, không có phản biện xã hội thì không có một nước Mỹ kinh tế phát triển và thế lực hùng mạnh như ngày nay vì “ Phản biện đã làm nên nước Mỹ”. Cũng tiếc thay một thế hệ văn nghệ sỹ ( trước thế hệ chúng ta mươi năm) cũng đi theo kháng chiến, cũng lên Việt Bắc và trong đó không thấy có người nào đòi lật đổ nhà nước nhưng chỉ vì có những phản biện nên cả cuộc đời đã tàn lụi như Hữu Loan, Hoàng Cầm, Phùng Quán và cả Văn Cao ( người sáng tác quốc ca ), ….
    Năm, sau mươi năm đã qua rồi, chỉ mong rằng sau năm, sáu mươi năm nữa, con cháu chúng ta sẽ không có những điều phải thốt lên “ tiếc thay “ như thế nữa.
    Cảm ơn bạn Ngọc Trâm đã sưu tầm “ Lời tự thuật của Hữu Loan về bài thơ Màu tím hoa sim”, nhưng nó cũng như lời tự thuật của một thế hệ về một giai đoạn của thời cuộc. Một giai đoạn thân thương mà cay đắng, một giai đoạn chứa chan tình người và đầy rẫy những xung đột.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Theo bạn KỳGai, thế hê chúng ta được tham gia kháng chiến, có lúc lạc vào rừng sim và đã thuộc lòng bài Màu tím hoa sim. Tôi cũng vậy. Tôi nhớ khoảng năm 49, 50..., cha mẹ tôi ở làng Quần Tín, Thanh Hóa cùng với các văn nghệ sĩ từ Hà Nội vào. Các văn nghệ sĩ giảng dạy nhiều lớp Văn hóa kháng chiến cho thế hệ trẻ. Tối đến cha mẹ tôi bao giờ cũng có khách đến bàn thảo văn chương. Đến giờ đi ngủ, nhưng tôi thường rón rén lên giường nằm, và đã nghe nhiều về Màu tím hoa sim, cả bác Hữu Loan cũng ngồi thảo luận. Bài thơ đã in sâu vào tâm trí tôi từ thưở đó.
      Tôi cũng nghĩ như bạn Kỳ Gai, Lời tự thuật của Hữu Loan về bài thơ Màu tím hoa sim... còn là lời của một thế hệ về một giai đoạn của thời cuộc.

      Xóa
  3. Cám ơn Trâm đã đưa lên một bài rất hay và rất đẹp. Rất ngạc nhiên là chỉ trong một đoạn tự chuyện ngắn gọn của nhà thơ Hữu Loan mà đã gợi lại cho chúng ta nhớ lại những giai đoạn đau thương và nặng nề nhất của lịch sử dân tộc mình, trong thời đại chúng ta sống, chúng ta được chứng kiến. Nhưng vì bị bưng bít mà nhiều điều chúng ta không hiểu hết. Tôi có cảm tưởng rằng hiện nay chúng ta cũng đang sống trong một hoàn cachr như vậy cũng đang có một sai lầm rất nặng nề mà chưa vượt ra được !!

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Ánh suy nghĩ rất mạch lạc, sáng tỏ về bài thơ Màu tím hoa sim. Tuổi trẻ của chúng ta đã trôi qua giữa nhưng năm tháng đó, mặc dù thời cuộc không cho phép chúng ta hiểu tường tận, phân biết mọi phải trái đúng sai. Mong sao những sai lầm, bưng bít trong quá khứ không bị lặp lại trong hiện tại, những tài năng trong xã hội được sử dụng và phát huy đúng mức.

      Xóa
  4. Tôi đã đọc một sơ bài về cuộc đời của nhà thơ Hữu Loan (và một số Văn nghệ sỹ khác thuộc nhóm NVGP, bị xử lý một cách oan ức, vô nhân đạo ...). Trong sơ đó tôi vơ cùng thương cảm và khâm phục nhất là: Nhà thơ Hữu Loan và nhà thơ Phùng Quán.
    Nhạc sỹ Phạm Duy có bài "Áo anh sứt chỉ đường tà" cũng rất hay, phổ theo bài thơ "Màu tím hoa sim" của NT Hưu Loan.
    Cảm ơn Ngọc Trâm đã giới thiệu một bài để được hiểu kỹ hơn về cuộc đời chìm nổi của NT Hữu Loan và hiểu thêm cách nhà cầm quyền đã đối xử với VNS không đồng "quan điểm" với họ.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Cảm ơn bạn Trung Hải đã đọc nhiều, theo dõi nhiều về tình hình văn nghệ sĩ, đặc biệt số những người bị liệt vào nhóm nhân văn giai phẩm.
      Nhà thơ Hữu Loan là người có tài và sống có tình, nhưng cuộc sống của ông không may mắn. Thơ văn của ông viết không nhiều, nhưng có những tác phẩm để đời như Màu tím hoa sim. Mong sao nhà nước và xã hội có cái nhìn đúng đắn và công bằng với người cầm bút để họ phát huy mọi tài năng và cống hiến của mình.

      Xóa
  5. Thú thật tôi không cầm được nước mắt khi đọc một mạch bài tự thuật của Nhà thơ Hữu Loan. Đọc xong tôi ngồi lặng đi như bị sốc, không một cảm nghĩ – hoàn toàn trống không, hoàn toàn trống rỗng! Chỉ phút sau tất cả mới ùa đến: đau xót, chua cay, phẫn nộ, song vượt lên trên tất cả là KHÂM PHỤC và THƯƠNG CẢM.. Khâm phục NT Hữu Loan, một con người kiên nghị, trung trực không chịu cúi luồn. Một con người vượt lên mọi chà đạp khổ ải để sống, đẻ tồn tại, để bảo vệ PHẨM CHẤT và QUYỀN CON NGƯỜI, quyền được yêu và quyền được đau xót! Thương cảm cho mối tình trong trắng tuyệt đẹp của một em gái mới tám tuổi đời đến khi trở thành một cô gái 17 tuổi xinh đẹp. Ước gì tôi được là một nhà văn hay nhà đạo diễn phim đẻ viêt một cuốn tiểu thuyêt hay dựng một cuốn phim về mối tình này. Và ước gì được thắp một nén hương nên ngôi mộ NÀNG!

    Màu hoa SIM
    Ôi, màu tím hoa Sim
    Màu tượng trưng cho mối tình
    Của MỘT TRÁI TIM!

    Cảm ơn bạn Ngọc Trâm đã gợi dậy trong tôi những xúc động vừa thốt lên ở trên.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Tôi rất cảm động khi đọc những dòng comment của bạn viết về nhà thơ Hữu Loan và Màu tím hoa sim. Bạn là người rất giàu tình cảm. Bạn đã phân tích sâu sắc về lòng khâm phục và thương cảm của mình với nhà thơ, với những nhân vật chính trong tác phẩm. Hữu Loan là con người thông minh, có tài năng. Ông sống theo lẽ phải và tình người, không chịu nổi sự bất công chà đạp lên con người. Nếu không được gặp ông thì cuộc đời của cô gái con địa chủ kia sẽ ra sao? Còn ông, ông chỉ xuất phát từ tình thương yêu giúp đỡ con người, để người khác bình yên, may mắn.

      Xóa
    2. Tôi rất tiếc là vì xúc động và vì vội viết ra cảm xúc của mình nên đáng nhẽ và phải viết thêm câu " Ước gì được kính cẩn thắp nén hương lên ngôi mộ của Nhà thơ Hữu Loan", Xin được viết thêm như thế và xin được linh hồn Nhà thơ xá lỗi! Và đáng nhẽ tôi cũng phải viết thêm "...đẻ viêt một cuốn tiểu thuyêt hay dựng một cuốn phim về mối tình này VÀ VỀ CUỘC ĐỜI CAO THƯỢNG NHƯNG CŨNG ĐẦY SÓNG GIÓ KHỔ ẢI CỦA NHÀ THƠ TÀI BA KIÊN TRỰC NGUYỄN HỮU LOAN". Tôi tin rằng sớm muộn (chắc là MUỘN) sẽ ra đời bộ phim như thế (vì người ta đã mua bản quyền bài thơ của Ông).Mong bạn Ngọc Trâm và các bạn tiếp nhận những lời viết thêm này. VH.

      Xóa
    3. Đọc đoạn viết thêm mình càng hiểu thêm tình cảm, sự ngưỡng mộ và lòng biết ơn của bạn Việt Hùng với nhà thơ. Bạn vào Goole tra tên ông thì sẽ được đọc nhiều tác phẩm của ông, những hiểu biết về con người và cuộc sống của ông.
      Đây là bài "Tình thủ đô" do bè bạn ghi theo trí nhớ, và tác giả đã duyệt lại:
      Trên những chuyến xe bò
      đi về đường Trèm, Vẽ
      Việt Bắc âm u
      Đường dài Thanh Nghệ
      Người Thủ đô tản cư
      Đoàn xe bò
      Chở nặng tâm tư
      Một góc nhà
      Một hè phố
      Mắt em biếc
      Một chiều xưa
      (…) Những người bắt sống Le Page và Charton
      Những chiến sĩ Cao Bằng - Đông Khê
      Những binh đoàn biên giới
      Đang chuyển về Trung Du
      Như đi từng dãy núi
      Kẹp vòng quanh ngoại vi Thủ đô.

      Xóa
  6. Nhận xét này đã bị tác giả xóa.

    Trả lờiXóa
  7. Kính viếng thi sĩ Hữu Loan (Võ Quế)

    Đài sim tím nâng người thơ
    Bay lên khinh khoái đôi bờ sắc không
    Khổ đau hệ lụy hồng trần
    Một đời thi sĩ phù vân kiếp người
    Bây chừ thoát tục rong chơi
    Ung dung sim tím trên đồi thượng thiên
    Huế, 19. 3. 2010.

    Trả lờiXóa
  8. Cuộc đời thấm thoát trăm năm,
    Gian nan, khúc khuỷu, nhọc nhằn vượt qua,
    Sống ngay thẳng, chống gian tà,
    Văn chương thơ phú mượt mà như nhung,
    Đồi sim bát ngát nghìn trùng,
    Thơ ông còn đó mãi không phai mờ!

    Cảm ơn Thanh Mai nhiều nhiều!

    Trả lờiXóa
  9. Nhà thơ Hữu Loan nổi tiếng về thi ca và về cách sống( như ông nói "bận làm người") ngay cách ông xử lý trước cường quyến bằng việc bỏ công tác ( không viết đơn xin) dắt díu vợ con về quê lao động nặng nhọc dầu dãi không khuất phục, không biết cái lệnh cho tên CA giết ông( truy sát,do chính tên này đã kể cho ông và nhờ bài thơ Yên mô mà hắn không nỡ ra đòn) là từ ổ nào , hồi đó có nhà văn Nguyên Hồng chủ nhiệm báo Văn cũng cõng vợ con ( có một cậu con trai cũng từng là bạn QL ta) về Yên Thế ( nơi từng ở những ngày kháng chiến) làm ruộng.
    Bài thơ này được nhiều người thuộc và nhớ năm trước trên đình làng cũ cũng đã từng bình luận thưởng thức, nay chỉ xin thêm ý sau: về nghệ thuật thơ Hữu Loan còn một số bài được đánh giá cao trong số đó có bài " Đèo Cả" hào hùng chất anh hùng ca với hình thức thơ bậc thang rất sớm( khi ở ta chưa ai biết Maiacovski ). Ông đúng là một người có học một nghệ sỹ chân chính!

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Tôi cũng nhớ, cách đây mấy năm khi Hữu Loan còn sống, chúng ta có bàn luận về ông và Màu tím hoa sim. Do hoàn cảnh riêng nên con cái ông tuy đều được đi học, nhưng thường gặp khó khăn. Con trai đầu của ông tốt nghiệp có danh sách đi Liên Xô, nhưng chờ mãi không có giấy gọi, đành phải đi làm. Con gái thứ 2 có danh sách đi sư phạm, cũng chờ mãi không có giấy gọi. Thương con ông lên xã hỏi, không có giấy, ông lên huyện, cuối cùng tìm ra giấy, con ông được học sư phạm và hiện làm nhà giáo. Mười người con ông chỉ có Nguyễn Hữu Đán, người con thứ 8 là thành đạt nhất. Đán tốt nghiệp phổ thông xong đi làm thợ 5 năm, sau đó tự ôn thi và thi đậu vào Trường kiến trúc. Hiện nay Đán làm Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần bảo tồn di sản văn hóa kiến trúc Việt.
      Trong đám tang ông nhiều cơ quan và đồng nghiệp có kế hoạch đứng lên sưu tầm và lượm lặt để công bố những tác phẩm của ông.

      Xóa
  10. Nhận xét này đã bị tác giả xóa.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Đấy là tôi nhắc tới con nhà văn nhà thơ Nguyên Hồng chứ ông Hữu Loan ngày đó chưa thể có con nào mà cho đi QL với ta đâu.

      Xóa
    2. Xin lỗi Nguyên Hân, mình đã đọc và hiểu nhầm là Hữu Loan có con học Quế Lâm. Tôi sẽ chữa chỗ nhầm đó.

      Xóa
  11. Tiếng thơ lay động đất trời
    Hữu Loan ơi, nhơ những đồi hoa sim
    Một đời ngay thẳng,trung trinh
    Giờ về thanh thản lung linh cõi hồng.

    Trả lờiXóa
  12. Bài thơ "Màu tím hoa sim" này của bác Hữu Loan đã được phổ nhạc thành bài hát "Những đôi hoa sim" ? Bài hát rất hay và cảm động.
    Đến bây giờ chúng ta mới được biết những tâm sự thật lòng của nhà thơ.
    Đất nước chúng ta đã trải qua những thời kì khốc liệt. Nghe bài hát "Những đồi hoa sim", tôi liên tưởng em gái quê nhà chết do bom đạn, giờ mới biết chỉ là do tai nạn chết đuối. Đau thương. Đúng! Quá đau thương. Nhưng ở thời đó, nếu biêt biến đau thương thành hành động cách mạng thì sẽ tốt đẹp biết bao. .
    "Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội, từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi' hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi'. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Mặc kệ ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi quá ! với lại tôi cũng chán ngấy bọn họ quá rồi !"
    Trong hoàn cảnh nước nhà đang trong cơn binh biến, rất rất nhiều người đã gác những nỗi đau riêng để một lòng tâm nguyện hoàn thành sứ mệnh của đất nước. Nếu ai cũng vì những nỗi đau riêng mà từ bỏ cách mạng như HL thì thử hỏi Quân đội của chúng ta sẽ ra sao?. HL cho rằng " Họ "hạnh họe", nhưng mặc dù không sống trong cảnh đó, tôi cũng đoán, họ muốn an ủi HL đừng xa rời hàng ngũ, đừng bỏ cách mạng.
    Hãy thử nghĩ mà xem, nếu không phải là QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM, mà là một quân đội khác, khi một người kiên quyết xa rời hàng ngũ, bỏ qua mọi lời khuyên răn của đồng đội, thì họ sử trí ra sao?
    Nếu đem so sánh HL với cô vợ nạn nhân CCRĐ thì HL không được bằng cô ta đâu. Trong hoàn cảnh thê thảm như vậy, nhưng cô ta vẫn sống, mà nào oán than gì.
    Tôi không nói suông đâu. Tôi xin liên hệ chính bản thân tôi: Hiện tại ở nơi công sở, tôi bị sếp đối xử rất không công bằng, nhưng tôi vẫn là việc rất hăng say, vì tôi yêu công việc của mình, mặc dù bạn bè ra sức ngăn cản "làm để làm gì?, có thưởng đâu mà làm" Nhưng tôi vẫn làm để nhìn thấy kết quả, những sản phẩm của mình nó ra đời và tồn tại, mang lại niềm vui cho mọi người. Vậy thôi

    Trả lờiXóa
  13. Phải chăng Hữu Loan đã quá ích kỉ khi nghĩ về nỗi đau của mình?
    Từng đã có biết bao con người có những nỗi đau vô bờ khi người thân bị giặc giết dã man, nhưng họ đâu có gục ngã như HL
    HL cũng đã tự thừa nhận rằng tính ông hay cãi và thích chống đối? Với tính cách như vây, sống trong thời bình đã khó, huống hồ là thời chiến? Trong quân đội mà chống đối cấp trên, từ bỏ hàng ngũ? Ai biết được khi xa rời hàng ngũ, lại chán ngán đồng đội, HL sẽ làm gì? Bỏ Đảng, bỏ cơ quan, kiên quyết không làm đơn theo yêu cầu cấp trên, thích bỏ là bỏ. Như vậy có phải vô tổ chức, vô kỉ luật không? Tôi nghĩ, cái tên công an mật đi theo HL cũng là cần thiết.
    Tất nhiên, sai lầm của CCRĐ đã gây ra nhiều nỗi đau cho nhiều người, nhưng chúng ta đã biết chung tay góp sức dựng xây thì cuộc sống của chúng ta ngày nay vẫn tươi đẹp mà.
    Còn Nhân văn giai phẩm, Tự lực văn đoàn, dù có bị cấm đóan, do những cái nhìn định kiến thì sức sống mãnh liệt của nó vẫn còn tồn tại vĩnh hằng, có sao đâu.
    Và nhà thơ HL vẫn sống đời sống của người lao động chân chình và vẫn tiếp tục cống hiến những tác phẩm hay, tức là Xã hội chúng ta vẫn chấp nhận những tinh hoa của ông. Xã hội ta thật tươi đẹp

    Trả lờiXóa

tramngoc4x@gmail.com